Tranh chấp lao động là gì?
Căn cứ pháp lý
·
Bộ luật Lao động 2012;
·
NĐ 05/2015/NĐ-CP Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động;
·
NĐ 46/2013/NĐ-CP Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp
lao động;
·
Thông tư
08/2013/TT-BLĐTBXH Hướng dẫn Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm
2013 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động
về tranh chấp lao động.
Tranh chấp lao động (TCLĐ) là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động
cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động
tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.
Đối với tranh chấp lao động, khi xảy ra tranh
chấp trước hết các bên có thể tiến hành thương lượng nhằm giải quyết hài hòa
lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự
và an toàn xã hội.
Tuy nhiên nếu một bên từ chối thương lượng,
thương lượng không thành hoặc thương lượng thành mà một bên không thực hiện có
thể tiếp hành giải quyết tranh chấp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
theo yêu cầu của một bên. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền giải quyết TCLĐ là khác nhau đối với TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể,
cụ thể:
Trước hết việc tranh chấp phải được giải quyết
thông qua thủ tục hòa giải thông qua hòa giải viên lao động. Một bên tranh chấp
bằng cách gửi đơn đến Phòng Lao động Thương binh Xã hội nơi người sử dụng lao
động đặt trụ sở hoặc cư trú, sau khi tiếp nhận Phòng Lao động, Thương binh và
xã hội sẽ cử hòa giải viên lao động tham gia giải quyết tranh chấp lao động.
Trường hợp hòa giải viên lao động được cử không
tổ chức hòa giải trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu,
tranh chấp đã được hòa giải nhưng không thành, hòa giải thành nhưng bên người
sử dụng lao động không thực hiện những thỏa thuận được ghi trong biên bản hòa
giải thành thì các bên có quyền
Đối với TCLĐ cá nhân: yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa
án Nhân dân cấp huyện và là TAND nơi bị đơn có trụ sở đối với bị đơn là tổ chức
hoặc nơi bị đơn cư trú nếu là cá nhân.
Ngoài ra đối với một số tranh chấp lao động được
quy định tại Khoản 1 Điều 201 BLLĐ (như tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động
theo hình thức sa thải, về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
về bồi thường thiệt hại,…), các bên có thể kiện ra tòa ngay mà không phải qua
thủ tục hòa giải.
Đối với TCLĐ tập thể về
nghĩa vụ: yêu cầu Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện) nơi xảy ra tranh chấp giải quyết. Sau đó,
nếu các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì
các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực
hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng, với Tòa án là 1 năm kể
từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị vi phạm.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động
tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh
chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.
Làm sao để ANT Lawyers có thể giúp
doanh nghiệp của bạn?
Hãy liên hệ công ty luật ANT
Lawyers qua hòm thư luatsu@antlawyers.com hoặc
gọi số Hotline để được tư vấn.
0 nhận xét trong bài "Tư vấn tranh chấp lao động"
Đăng nhận xét
- Vui lòng gõ có dấu khi sử dụng tiếng việt.
- Nghiêm cấm spam link khác.
- Sử dụng ngôn ngữ có văn hóa khi comment.